“Đi chùa lễ Phật” vốn đã đi vào tâm thức người Việt từ bao đời nay, vậy mà giờ đây, khi xã hội đang “hiện đại hóa”, chốn thờ tự mọc khắp nơi, nhiều người chợt hoang mang đặt câu hỏi tưởng như… rất thừa: Đi chùa lễ Phật, nhưng Phật có ngự ở chùa hay không?
Nhân tiết tháng Giêng, tác giả Trúc Nguyễn trên Vietnamnetmạn đàm về đề tài trên và bày tỏ quan điểm: Để bàn tới việc chùa nào mới thực sự có Phật, thiết nghĩ không thể thích hợp hơn là nhìn lại hành trạng của Phật Thích Ca Mâu Ni lúc sinh thời.
Có lẽ không nhiều người chú ý rằng những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của đức Thích Ca đều gắn với cây với rừng: Sinh ra dưới gốc cây Vô ưu, 6 năm tu khổ hạnh trong rừng già, chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề, truyền giáo sinh hoạt tăng đoàn trong Vườn Cấp Cô Độc, nhập Niết Bàn trong rừng cây Sala…
Sau nhiều năm kiên trì tu khổ hạnh ngày ăn vài hạt đậu, mè… sức khỏe suy kiệt nhưng vẫn không đạt được “Tuệ Giác”, ngài chuyển qua pháp tu “Trung đạo”. Đi khất thực chỉ đủ cơm ăn ngày 1 bữa, ngủ dưới gốc cây ngày 1 giấc (nhật trung nhất thực thọ hạ nhất túc), mặc “y bá nạp”, áo được may từ trăm mảnh vải thừa ráp lại…
Khi nhu cầu căn bản về dưỡng chất cho cơ thể được đảm bảo thì đạt được trạng thái tinh thần phấn chấn, ngài liền đau đáu: Chén cơm mình có ăn là mồ hôi công sức của cần lao bá tánh. Vì thế, Ngài đưa ra “Ba tiêu đề” và “Năm điều tưởng nhớ” để nhà chùa khi bưng bát cơm lên mà biết tự dặn lòng mình ăn sao cho xứng đáng…
Nhìn từ đức Phật đến các vị chân tu thời cận – hiện đại, một đặc điểm chung nổi bật là hạnh khiêm cung, lối sống tối giản về vật chất và không gian tu hành thanh tịnh… Không ai chơi đồ gỗ, khoe đá quý, đi xe tiền tỉ, không treo ảnh chụp chung với quan chức, không chưng bằng chứng nhận “kỷ lục”…
Chùa thì nghèo nhưng các ngài thì giàu: Giàu về tâm linh, thâm hậu về oai nghi, giới hạnh… làm lan tỏa một nguồn năng lượng bình an cho những người đi chùa, rộng ra cho cả vùng…
Trong văn hóa làng xã nước ta mái chùa, ngôi đình là những hình ảnh gần gũi thân thương, là nơi cất giữ hồn cốt của một ngôi làng, một địa phương. Có người ra nước ngoài sinh sống mỗi khi nhớ đến ngôi chùa quê đã phải thốt lên: Mái chùa che chở hồn dân tộc / nếp sống muôn đời của tổ tông…
Những giá trị văn hóa ấy ngày nay đang thay đổi chóng vánh, đang bị đảo lộn làm cho người ta có cảm giác hụt hẫng. Các nhà quản lý có bao giờ đặt câu hỏi chúng ta đang làm gì với văn hoá truyền thống, với đức tin tâm linh của người dân? Hay tất cả đều quy về một mẫu số chung là… tiền!?
Một số ngôi chùa là di sản của ông cha để lại nay người ta lập “BOT” thu tiền người dân đến viếng! Cúng sao giải hạn năm nào cũng bị nhân sĩ trí thức và dư luận phê phán. Vậy nhưng một số chùa thì mũ ni che tai cứ việc ta ta làm, lại còn chốt giá theo đầu người không cho “cúng” thiếu… khác nào chốn mua bán!
Đầu năm đi lễ, nhiều người bất ngờ với trạm bán vé giữa lưng chừng non thiêng Yên Tử. Ảnh: Tình Lê
Cũng bàn về hiện tượng biến tướng ở nhiều vùng nhang khói, mới đây, cây viết Lê Thanh Phong trên báo Lao Động có bài “150.000 đồng dâng sao giải hạn là thấp hơn giá thị trường!”. Bài viết phản ánh một ngôi chùa ở Hà Nội từ chối giải hạn vì “thiếu lễ” 50.000 đồng đang gây xôn xao dư luận.
“150.000 chia cho 12 tháng, có năm có cả những tháng nhuận. Tính ra như vậy là cũng rất “hạ” rồi”, đó là trả lời của người phụ trách toàn bộ công việc tại ngôi chùa này.
Thật đáng băn khoăn khi dâng sao giải hạn mà đưa ra mức giá 150.000 đồng, thiếu 50.000 đồng cũng không giải được. Và càng băn khoăn hơn khi cho rằng, giá đó đã “hạ”, ý là bớt, là thấp hơn “thị trường”. Mà vị phụ trách này nói e cũng có lý, vì trên thị trường dâng sao giải hạn, có nhiều nơi giá khá cao, lên tới 500.000 đồng một suất.
Đúng là buôn thần bán thánh, chỉ có mua bán mới tính toán tăng giá hay hạ giá, còn chuyện tín ngưỡng tôn giáo sao có thể quy ra tiền. Căn cứ vào chuẩn mực nào để đưa ra định mức, từ đó để tính là cao hay hạ?
Trở lại với nỗi niềm của tác giả Trúc Nguyễn. Ký giả này băn khoăn: Một nghịch lý đó là chùa “thập diện mai phục” đất nước, chùa trăm hoa đua nở, sư tăng hiện diện trong những nơi đô hội sầm uất… nhưng đạo đức xã hội lại trong tình trạng cảnh báo nguy cấp, giả dối và bạo lực lên ngôi.
Người xưa đi lễ chùa đầu Xuân là để thể hiện lòng kính ngưỡng đối với Phật, biết rằng điều Phật dạy con người là tu nhân tích đức, điều Phật ban cho con người không phải là tiền bạc, của cải hay sức khỏe mà là trí huệ và giác ngộ tâm linh.
Chùa vốn là chốn vô cùng linh thiêng, thanh tịnh, tách biệt với thế tục để những người xuất gia tĩnh tâm tu hành theo lời Phật dạy để giải thoát khỏi bể khổ luân hồi. Đây cũng là nơi những chúng sinh ngoài thế tục tới để tỏ lòng kính ngưỡng Phật, gieo mầm cơ duyên với Phật Pháp.
Xưa, chùa làng nào, dân làng nấy thờ (tức làng nào cũng có chùa). Đó là xuất phát từ việc tín ngưỡng Phật luôn ở bên cạnh, ở khắp nơi, trông nom gìn giữ cho con người bảo trì được thiện tâm, tin điều thiện tránh điều dữ, tích phúc đức. Kính Phật lên chùa là việc để thể hiện kính ngưỡng, không với tâm cầu xin tài lộc.
Còn nay, nhiều người do tâm lý đám đông, nghe nói chùa nào thiêng, chùa nào nổi tiếng thì nô nức đến dâng lễ cầu xin. Điều đó là bởi vì họ tin rằng chùa thiêng thì xin gì được nấy, xin được nhiều. Tâm cầu tài lộc quá mạnh mẽ, giống như một cuộc mua bán đổi chác mặc cả với Phật. Người xưa không có cái tâm phân biệt ấy, họ tin rằng ở đâu có người thiện đức thì ở đó có Phật.
Chùa chỉ là hình thức do con người dựng nên, nên nếu ngay cả sư trong chùa có biểu hiện ham tiền của vật chất, biểu hiện của ham tình sắc, không tuân theo những lời dạy của Phật thì ở đó chắc chắn không có Phật ngự, cho dù chùa đó to lớn thế nào, tượng Phật có lộng lẫy dát vàng dát bạc ra sao.
Ngày nay người ta thấy quá nhiều các trường hợp mà sư tăng cai quản những ngôi chùa thật to lớn, lộng lẫy dát đầy vàng bạc, nhưng họ đeo vàng nhẫn đầy thân, đi xe sang, điện thoại đắt tiền, biểu hiện sự ham muốn hưởng thụ tiện nghi vật chất rất mạnh, nói năng hành xử không khác người ngoài thế tục, vậy họ còn xứng đáng là con của Phật, nơi chùa họ trông nom liệu Phật còn muốn ngự không?
Người tu hành xuất gia là phải tu “xả bỏ” những ham muốn thế tục, vậy họ có phải đang làm trái ngược hẳn với điều Phật dạy. Những ai gặp những ngôi chùa như vậy, chúng ta nên suy ngẫm xem. Có rất nhiều người khi tới chùa cũng thắc mắc trong lòng khi nhìn thấy những sự chướng tai gai mắt trong hành xử của sư tăng trong chùa, nhưng vì thói quen và thấy chùa to lớn đẹp đẽ nên nghĩ rằng hẳn vẫn là tốt đẹp khi cúng Phật ở đó. Song theo như ý kiến của nhiều người tu hành chân chính, những ngôi chùa chẳng hề thanh tịnh sẽ không có Phật ngự mà thay vào đó lại chính là quỷ ma hoành hành.
Dù thế nào đi nữa, chúng ta là “người trần mắt thịt”, không thể tránh khỏi đâu đó mắc sai lầm… Người đáng sợ nhất có lẽ không phải người mắc sai lầm, bởi vì Phật là từ bi, vốn không trách tội con người. Mà kẻ đáng sợ nhất có lẽ là kẻ vô Thần, không tin vào sự tồn tại của Thần Phật nên khi không ai nhìn thấy thì điều xấu ác nào cũng dám làm. Họ đã không còn sự tôn kính Thần Phật để tự gìn giữ câu thúc đạo đức nữa….
Hoàng Minh (Tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét