TRIẾT LÝ CỦA ĐẠO PHẬT
Bài 2: Kinh Phật
Kinh Phật do các đệ tử của đức Phật ghi lại và truyền tụng, do vậy trong văn phạm của kinh thường nói: "Tôi nghe như vầy".
Để tóm lược nhưng đủ ý dễ hiểu, ai cũng có thể nắm bắt mà không cần đến chùa nghe sư giảng, tôi viết ngắn gọn cho mọi người đọc và suy ngẫm, tự thân tâm đi tìm chính đạo.
1- Bát nhã kinh.
Là kinh tu luyện trí huệ để đưa người qua bờ bên kia. Mà trong đó khuyên con người tu tập để thành một vị bồ tát, hoặc một vị phật tương lai.
Không có một pháp thuật hay một chứng đắc nào cả, mà chỉ là sự khôn khéo trong lúc áp dụng phương pháp, và hồi hướng công đức làm nhiều việc thiện.
Trong kinh bát nhã nói nhiều về tính không trong thuật ngữ rằng "sắc tức thị không, không tức thị sắc" quan điểm của phật không can thiệp vào vạn vật, vạn vật tự vận hành theo duyên nghiệp của mình, vật chất có cũng như không, quan niệm có và không này được nhắc nhiều trong "Ngũ uẩn". Đó cũng là lý do của quy luật luân hồi.
2- Kim Cương kinh.
Chủ trương khuyên người tu hành không nên nhìn nhận một chúng sinh, một linh hồn, hay một cá nhân nào cả.
Không có pháp nào được Như Lai chứng đắc gọi là "Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác" Như Lai cũng chẳng truyền pháp nào cả, Ngài chứng ngộ và thuyết giảng, nó không phải pháp, cũng không phải phi pháp bởi pháp được xuất hiện trên cơ sở vô vi.
Vì vậy người tu hành không nên nương tựa bất cứ nơi nào, mà phải do chính tự mình giác ngộ.
3- Đại Nhật kinh.
Người tu hành đi tìm sự giải thoát, muốn giải thoát thì phải loại bỏ được Tham Sân Si, lấy sự giác ngộ của chính mình để giải thoát cho mình, lấy tâm đại bi làm gốc, biến cái có thành cái không, biến cái không thành cái có, tự tâm tự tại, tự khoan dung với chính mình cũng như chúng sinh.
4- Pháp Hoa kinh.
Khuyên người đi tu phải biết chuyển hoá phật tính và khả năng giải thoát, có nhiều cách giác ngộ khác nhau, tuy nhiên khả năng giác ngộ còn tuỳ thuộc vào căn cơ của mỗi người tu hành, nhưng nội dung chính là hãy lấy phật tính thay cho nhân tính của bản thể, lâu dần phật tính sẽ thay thế bản tính tự sinh của người tu hành và người tu hành sẽ trở thành một vị phật tương lai.
5- Hoa Nghiêm kinh.
Kinh này không phải Phật Thích Ca trực tiếp truyền dạy, mà do các nhà tu hành tự giác ngộ theo phương pháp Tam Thân của Phật, kinh này nhắc nhở nhà tu hành cần có tính vô ngại, phải lấy tâm mình làm trung tâm của vũ trụ và đồng thể với tâm của Phật, từ đó dụng tâm ý của Phật để phát triển tâm thức của chính mình, đó là sự kết nối linh thức tâm truyền tâm, đòi hỏi nhà tu hành phải tinh, sạch, vô chấp vô cầu, vô ngã mới tiếp nhận được linh thức của phật tổ, các vị bồ tát chân tu thường luyện theo phương pháp này.
6- Thủ Lăng Nghiêm tam muội kinh.
Khuyên người tu hành phá vỡ mọi phiền não bằng phương pháp thiền định ấn tam muội. Nghĩa là lấy mọi phiền não quy về một điểm, lại lấy phật tính không, để hoá giải mọi phiền não đó, khi nhân tâm và phật tâm được đồng thể thì mọi phiền não lập tức được hoá giải, đó cũng là nguyên lý gốc trong việc giải chướng nghiệp mà luật nhân quả mang lại cho người tu hành, tự thân hoá thân, tự thân mượn phật tính, lấy tâm thân của mình đồng thể vào tâm thân của phật để giải nghiệp chướng phiền não cho chính mình.
7- A Di Đà kinh.
Khuyên người tu hành tụng niệm danh hiệu của Phật, dựa vào danh hiệu của Phật để được dẫn dộ về miền cực lạc, mỗi lúc gặp nguy nan, nghiệp chướng thì tụng trì danh hiệu A Di Đà để mọi nghiệp chướng được tiêu tan, đây chính căn bản nguyên gốc là hệ quả của Đức Phật đã phát nguyện khi còn tại thế.
8- Thắng Man Kinh.
Kinh này nói về đức tính chân thật của Như Lai, việc một nhân vật là công chúa Thắng Man được Phật thụ ký gia trì để phát triển Bồ Đề tâm. Sau khi giác ngộ được đạo đức của Phật Giáo, Công chúa Thắng Man ngộ ra rằng:
Có ba hạng người tu hành, có thể đi trên đường đại thừa là.
- Hạng người có thể thực hiện được Trí huệ vô thượng một cách độc lập.
- Hạng người có thể nhờ nghe pháp mà đạt được trí huệ.
- Hạng người có đức tin, và tín tâm tin tưởng Phật pháp cũng có thể chứng ngộ, mặc dù không đạt được trí huệ tột cùng.
9- Thập Địa kinh.
Kinh này khuyên người tu hành phải chấp nhận sự cản trở và sẵn sàng vượt qua những ma nghiệp, ác chướng trong quá trình tu đạo, nó giúp cho người tu luyện có chính kiến, và chính định vượt qua mọi gian lao thử thách.
10- Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh.
Kinh này nói lên sự tu hành của một người cho dù người đó ở hoàn cảnh nào, giàu nghèo, sang hèn, tu ở nhà hay tu ở chùa thì đều có thể cùng nhau đi đến giác ngộ.
11- Giải Thâm Mật Kinh.
Kinh này nhắc nhở người tu hành phải quan sát thế giới theo tư duy và nhận thức trong quá trình học đạo, hiểu rõ nguyên do và thời điểm Phật thuyết giảng kinh và truyền đạo, tìm hiểu chân lý tuyệt đối, tính siêu việt của tâm thức, tâm ý, thức tướng, tự tính và vô tự tính, giác ngộ quán và hạnh ngộ quán.
12- Lập Lăng Già Kinh.
Kinh này nhấn mạnh đến tính giác ngộ nội tại, đánh thức những tiềm năng phật tính của con người, tự mình tìm cho mình con đường chân lý, mọi văn kinh và lý pháp không đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền đạo.
13- Bộ kinh- A Hàm Kinh.
Kinh này nói về pháp quy, sự căn bản, thông qua đó để phát hiện những pháp màu nhiệm, tập chung các yếu tố siêu nhiên thông qua quán tưởng và thiền định.
Trong các bộ kinh, còn nhiều những chi tiết nhỏ nhưng tựu trung ý nghĩa bao hàm của đạo Phật, chúng ta chỉ cần hiểu rõ những nội dung được ghi trong 13 đại kinh trên.
Ngoài ra còn nhiều pháp chú cầu duyên, cầu phúc, cầu an, gia trì cho chúng sinh. Tiêu biểu trong đó là "Chú Đại Bi".
Tôi nhận thấy rằng: trong nhiều năm trở lại đây, nhiều nhà sư đã có những tư duy lệch lạc, khiến cho đại chúng nghi ngờ về tính minh triết của đạo Phật. Chính vì vậy mà tôi dành thời gian để biên soạn cô đọng những ý chính mà đức Phật muốn truyền tải đến với mọi người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét