Thứ Ba, 10 tháng 9, 2019

Phát hiện thú vị về thân thế thực sự của quan Hoàng Mười

Nếu xét về mọi mặt, thì tướng Lê Khôi, người ít được nhắc đến trong chính sử, có thể mới chính là ông thánh Hoàng Mười.


Đây là câu hỏi có lẽ là cực kỳ bí ẩn và khó trả lời. Một ông thần nổi tiếng như thế, cả nước nghe tên, ngàn vạn đồng cô bóng cậu thờ phụng, cả triệu người đến khấn vái xin quan tước bổng lộc, nhưng lại chẳng biết ông ta là ai. Thần thánh – hầu như đều có gốc gác người thật, nhưng “vị Thánh” này nổi tiếng thế, ngôi đền thờ có niên đại không xa, mà không ai biết là ai, thì kể cũng lạ.

Trong chuyến đi công tác ở Thọ Xuân (Thanh Hóa), nghiên cứu các tài liệu cổ, di tích lịch sử, lại phát hiện ra gốc tích ông thần đang được thờ cúng ở Nghệ An và Hà Tĩnh này, mới thực là thú vị.
Tại Thọ Xuân có ngôi đền nhỏ, thờ một vị là “Đức Uy hiển ứng tôn thần”.
Nhà nghiên cứu sử địa phương, là ông Hoàng Hùng, có mấy chục năm sưu tầm các vị tướng lĩnh, các thánh thần, các nhân vật nổi tiếng thời Lê ở vùng Thọ Xuân (Thanh Hóa). Ông sưu tầm từ các gia phả cổ, bia đá, sắc phong, tài liệu từ Viện Viễn Đông Bác cổ... Đại Việt sử ký... tóm lại là các tài liệu chính thống.
Các tài liệu chính thống này có ghi chép ngắn gọi về một nhân vật tên Lê Khôi, chính là “Đức Uy hiển ứng tôn thần”, thời ở một số nơi trên địa bàn Thọ Xuân.
Nhà nghiên cứu sử địa phương Hoàng Hùng tin rằng quan Hoàng Mười chính là tướng Lê Khôi. 
Ông Lê Khôi là con anh thứ 2 của vua Lê Thái Tổ. Ông theo vua đánh giặc từ hồi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn, lập nhiều chiến công lớn. Ông là một dũng tướng tài ba, quan thanh liêm được dân yêu mến.
Trận đánh ải Khả Lưu, Lê Khôi cùng Lê Sát xông lên trận tiền, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng Hoàng Thành.
Ông cùng Phạm Vấn, Lê Sát phá giặc Minh ở thành Xương Giang, bắt sống Hoàng Phúc và Thôi Tụ, dẹp yên giặc Ngô, khôi phục Đông Đô.
Năm Thuận Thiên thứ nhất 1428, ông được phong Bảo Chính công thần nhập nội thiếu úy. Thuận Thiên thứ 2 khắc biển công thần, đứng hàng thứ 2 trong bảng Đình Thượng hầu thập tứ nhân.
Thuận Thiên thứ ba 1430, Thái Tổ Lê Lợi sai Lê Khôi trấn giữ châu Thuận Hóa, vì người Man quấy phá.
Lê Khôi vào đây, dỡ bỏ trạm gác, dạy bảo dân trồng dâu cày ruộng, ngày đêm tập luyện quân sĩ, giữ vững bờ cõi biên cương. Lấy nhân đức cai trị. Đánh nhiều trận, bắt nhiều giặc, nhưng ông đều đối đãi tử tế, tha cho về. Giặc Chiêm vừa sợ vừa mến đức ông. Cống sứ Chiêm ra Bắc, đều ghé thăm ông.
Tượng tướng Lê Khôi ở Hà Tĩnh. Ảnh internet.
Cũng năm đó, Bế Khắc Thiệu, Nông Đức Thái bạo loạn ở Thanh Lâm, Thái Nguyên, Lê Khôi đem quân hợp binh cùng Lê Lợi đánh, bắt bọn Thiệu. Vua Lê tặng kim phù và áo bào.
Thuận Thiên thứ sáu, vua bệnh nặng, gọi Lê Khôi vào cung, bàn việc truyền ngôi cho Nguyên Long. Ông một lòng giúp Lê Thái Tông việc nước.
Năm Thiệu Bình thứ tư 1437, Lê Thái Tông cho ông làm Nhập nội tư mã, tham dự chính sự, coi việc quân ở đạo Hải Tây (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa).
Thiệu Bình thứ sau 1439, Lê Khôi đánh Ai Lao, bắt sống tướng Man là Đạo Mông.
Năm Bảo Đại thứ nhất 1440, theo vua đánh Thuận Hóa. Bảo Đại thứ hai, ép tù trưởng Man Nghiễn ra hàng. Khuất phục Thuận Hóa. Công lao quá lớn, được phong Nhập nội đô đốc. Phạm việc nhỏ to, vua đều hỏi ông mới quyết định.
Sau này, vì việc riêng, mà ông bị cách chức. Ông về nhàn cư ở nhà, vui vầy với dân làng, không bất mãn oánh trách.
Lê Nhân Tông lên ngôi, coi ông là bậc nguyên thần cũ, nên năm Thái Hòa thứ nhất 1448, vời ông ra làm Nhập nội thiếu úy, coi việc phủ Nghệ An.
Sử chép, khi Lê Khôi quay về trấn Nghệ An, nhân dân đứng đón ông chật hai bên đường. Chỉ vài năm chính sự được công bằng, kiện cáo được xét xử thỏa đáng, mùa màng tốt tươi, dân yên vật thịnh, tiếng ca tụng ân đức của ông lan truyền từ thành thị đến làng xã ngõ vắng. Tính ông bình dị, gần dân nên được nhân dân cả vùng yêu mến tin tưởng.
Tượng quan Hoàng Mười.
Năm Thái Hòa thứ hai 1449, chúa Chiêm Thành là Bí Cái dốc hết lực lượng trong nước ra cướp thành Châu Hóa. Năm thứ ba lại đem quan đánh thành An Dung (thuộc Châu Hóa). Lê Nhân Tông sai quan tư đồ Lê Thận (Nguyễn Thận), đô đôc Lê Xí (Nguyễn Xí) đem quân đánh dẹp, sai Lê Khôi đem quân đi tăng viện. Chiêm Thành thua to phải bỏ chạy về nước. Vua phong Lê Khôi là Nhập nội tham dự việc quan trọng triều chính, nhưng vẫn giữ trấn Nghệ An.
Thái hòa thứ tư 1451, Lê Nhân Tông sai đô đốc Lê Khả (Trịnh Khả) đánh dẹp phương Nam, Lê Khôi đem quân bản bộ tiến trước. Khi đến đất địch, tướng giặc biết có quân Lê Khôi bè gọi sang hỏi: “Có phải Tư Mã đến đấy không?”. Ông bèn bỏ mũ trị ra cho giặc nhìn thấy mặt. Giặc đều xuống ngựa lạy xin hàng, nộp cống vật địa phương. Quân Lê Khôi đi đến đâu giặc tan đến đó. Ông đánh vào tận thành Đồ Bàn, bắt chúa Chiêm là Bí Cái, rồi mới thu quân về.
Trên đường về, Lê Khôi bị bệnh nặng và mất ở chân núi Long Ngâm, gần cửa biển Nam Giới, tức địa danh Hà Tĩnh, cách không xa Hưng Nguyên thuộc Nghệ An bây giờ. Quân sĩ thương xót, kêu khóc vang trời dậy đất, vua bỏ triều ba ngày, sai quan đến phúng điếu, tăng chức Nhập nội đô đốc.
Các tài liệu cổ cũng như dân gian ở Thọ Xuân còn ghi rõ, người dân đất Hoan Châu (Nghệ An) bây giờ thương tiếc và nhớ ân đức của ông nên lập miếu thờ phụng.
Lê Khôi là người làng Lam Sơn (Lương Giang, nay là làng Cham, thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa). Ông là em Thái úy Lê Khang, con Hoàng Dụ Vương Lê Trừ, gọi Lê Thái Tổ là chú ruột.
Năm Quang Thuận thứ tư 1463, triều vua Lê Thánh Tông, con trai ông làm nhập nội Đại hành khiển tâu xin dựng bia ở Nam Giới (Hà Tĩnh giờ) để ghi sự tích. Vua sai thượng thư Nguyễn Như Đỗ soạn văn bia để khắc và được tấn phong Chiêu Trưng Vương.
Đấy là sơ lược phần chính sử, còn phần huyền tích về Lê Khôi, thì cũng được nhiều tài liệu, gia phả, truyền miệng ở vùng Thọ Xuân ghi chép lại.
Theo các tài liệu dân gian, Cử Sót được sai làm tượng Lê Khôi để nhân dân thờ phụng ở Thuận Hóa. Trong lúc tìm gỗ để làm tượng, thì đêm nằm mộng có cây gỗ đinh hương trôi từ biển Hà Tĩnh vào. Hôm sau, dân chài báo, có cây gỗ đinh hương rất lớn trôi từ biển Triều Khẩu vào thật. Nhưng, Cử Sót không rõ mặt tướng Lê Khôi, nên không biết chạm khắc thế nào, thì đêm ngủ lại được thần báo thấy ai ngồi lên cây gỗ thì đẽo giống người đó.
Hôm sau, Cử Sót ra chỗ cây gỗ, có anh khóa sinh mặt mũi nhâng nháo đi đến ngồi lên cây gỗ. Cử Sót liền bắt khóa sinh đó lại, rồi đẽo tượng. Đẽo xong, khóa sinh liền hiến bộ tóc dài với râu, để dính vào tượng cho giống.
Theo lời nhà nghiên cứu sử địa phương Hoàng Hùng, ngoài những thông tin gia thế, và dân gian về ông Lê Khôi ở Thọ Xuân, cực kỳ kỹ lưỡng, chi tiết, rất khớp với ông Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An, thì có một thông tin tham khảo, nhưng lại trùng khớp đến kinh ngạc, đó là những bài hát văn về ông Hoàng Mười. Nội dung các bài hát văn cổ nói khá kỹ về thân thế sự nghiệp của ông thánh này.
Ông Hoàng Hùng đã nghiên cứu rất kỹ các bài hát văn về ông Hoàng Mười và nhận thấy các chi tiết khớp bao gồm: Xuất thân hoàng tộc, thân thích với vua Lê, vâng lệnh vua vào trấn Nghệ An, được dân đón tiếp, bị kỷ luật mất chức, rồi lại được vua vời đi đánh giặc khi Chiêm Thành quấy phá... nhiều bài hát văn có đoạn đi đánh Chiêm, giặc hỏi có phải “quan Tư Mã”, khi bỏ mũ giặc sợ hãi đầu hàng....
Quan Hoàng Mười có phải tướng Lê Khôi? Ảnh: Internet.
Ở Hà Tĩnh (vùng giáp Nghệ An) có tới 7 ngôi đền thờ ông Hoàng Mười (chỗ ông Lê Khôi chết), còn Hưng Thịnh (Hưng Nguyên, Nghệ An), thì có một ngôi đền rất to. Đền này xây dựng về sau, từ năm 1634, mãi gần 200 năm sau khi tướng Lê Khôi chết. Đền đổ nát, đến tận 1995 mới xây dựng lại, được thổi lên nhiều huyền thoại mới nổi tiếng như hiện nay.
Giống như những “vị Thánh” khác, ông Hoàng Mười gắn với nhiều huyền thoại ly kỳ to tát. Rằng, ông Hoàng Mười là người giời giáng trần giúp đời. Rằng, ông là con của vua cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên chốn Đào Nguyên này nọ. Theo lệnh thiên đình, ông giáng trần để giúp dân, giúp nước.
Lại còn truyền thuyết khác, ông này cũng là tiên, giáng trần trở thành Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai Vua Lý Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.
Sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện ông Mười giáng thế thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Những giai thoại kỳ bí này đã phủ lên ngôi đền một bức màn tâm linh huyền ảo và linh thiêng.
“Nếu xét về mọi mặt, thì tướng Lê Khôi con người bằng xương bằng thịt thực sự, là một vị tướng ít được nhắc đến trong chính sử, có thể mới chính là ông thánh Hoàng Mười. Tôi có niềm tin chắc chắn là như vậy” – nhà nghiên cứu sử địa phương Hoàng Hùng cho biết.
PHONG NGUYỆT





Tục thi Mẹ đồng quan của người Hà Nội xưa

Khi xưa, đất Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng có tục thi đồng quan hay còn gọi thi Mẹ đồng quan. Tục lệ cổ xưa này đến nay đã không còn được duy trì và chỉ còn qua những câu chuyện truyền lại của các cụ đồng cựu đất Hà Thành.

Một bà đồng (năm 1915). Ảnh: Leson Búy.



Thi đồng quan là gì?

Thi Mẹ đồng quan là các đồng hầu Thánh lâu năm, được trông nom phụng thờ ở các đền, phủ tổ chức “thi”, giống như lên đồng, hầu bóng. Tuy nhiên, thi đồng quan ở đây không giống các lễ thông thường mà chỉ thỉnh mời Thánh Mẫu là vị Thần chủ về giáng đồng như một sự chứng giám cho những tâm đức, công quả thờ phụng của vị đồng đền bản sở đó.

Soi chiếu trong văn hóa các dân tộc khác, có nhiều nét tương đồng lễ then Tày, lễ cấp sắc người Dao. Tuy nhiên, lễ thi mẹ đồng quan của người đồng bằng có nhiều điểm đặc biệt linh thiêng, độc đáo và khác biệt.

Tiêu chuẩn các thanh đồng được thi đồng quan thông thường nữ giới, không lập gia đình, đã và đang phụng thờ Tiên Thánh, được Thánh giáng ứng mộng thần, sống có lễ giáo, độ lượng, được mọi người trong thôn, xã trọng vọng.

Theo ghi chép, xưa thi Mẹ đồng quan có hai ngồi đền linh thiêng được các cụ truyền lại đó là đền Đầm Vòng thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình và đền Đại Lộ thờ Tứ vị Thánh Nương. Giám khảo của lễ thi đồng quan là sự chứng kiến của các cụ đồng quan khóa trước, chi phủ, chi huyện, chánh tổng, lý trưởng, chức sắc của nơi thi đồng quan

Trước ngày thi đồng, bà đồng ứng thí phải ăn chay ba tháng mười ngày cẩn mật, tuyệt đối giữ trì cẩn thận sao cho trong sạch nhất. Người thi ngày đêm hương đăng thờ phụng, trình cáo với các đền phủ cầu Tiên Thánh ứng giáng, gia hộ.  Khi xưa cụ hầu kiều Mẫu ngự giá ngày thứ nhất sơ thỉnh, ngày thứ hai tái chỉnh, ngày thứ ba cung thỉnh Mẫu giáng đồng nhân.


Trước đó một ngày, Pháp sư đănng đàn cúng phát tấu, cúng Phật, an trấn từ trung, nghiêm đàn cấm giới, khai quang đền phủ. Cùng với đó, bản đền tổ chức thi đồng quan phải trang hoàng đăng hoa lộng lẫy, cờ quạt, đèn hương sao cho nguy nga nhất.

Nghi lễ cẩn mật, trang nghiêm

Đến ngày thi, ghế thanh đồng mộc dục thanh tịnh mặc một bộ quần áo bằng giấy (có nơi áo công đồng bằng vải) ngồi lên ngai rồng đặt trong cung cấm. Lúc này, trong cung cấm chỉ có thanh đồng và thị giả, xung quanh buông rèm.

Hiện nay, đền Đại Lộ (Ninh Sở, Thường Tín) vẫn thờ cỗ ngai thi đồng quan trên ban thờ trước cung cấm. Khi bắt đầu kiều thỉnh Thánh Mẫu, bà đồng ứng thí đầu trùm khăn đỏ, cung công đồng Pháp sư bắt đầu cúng Bạt sinh hồng, các cụ quan niệm rằng khoảnh khắc đó người ngồi đồng chỉ còn phần xác để Mẫu ứng giáng. 

Sau đó các cung văn dâng văn thờ vọng từ ngoài vào, lúc bấy giờ trong cung cấm chỉ có đồng đền thủ nhang sở tại và đồng trưởng khâm trực cùng các thị giả hầu cận. Trong khi đó bên ngoài sân thì chánh tổng, lí trưởng, chức sắc quan viên vẫn Tài bàn tổ tôm, bàn đèn cỗ bàn chè chén. Dân làng và các khách thập phương chầu chực xung quanh chờ khoảnh khắc Thánh Mẫu ứng giáng. Trong cung cấm lúc đó thì đồng đền cùng đồng trưởng xì xụp van vái, kêu cầu!

Khi thi đông quan, người ta bóc 1000 nén vàng bỏ trong 1 mâm đồng, trong 1000 nén vàng ấy, họ chọn ra 1 nén vàng, viết hiệu của Thánh Mẫu mà bỏ vào nén ấy sau đó trộn lẫn với 999 nén vàng còn lại rồi dâng lên khẩn đảo cáo bạch với Mẫu cùng chư Thánh. 

Theo các cụ kể lại, có người ngồi từ trưa đến canh ba (tức 12h đêm) mà không thấy động cựa chân tay có nghĩa Thánh không giáng về, tất thẩy mọi người lại giải tán buổi lễ kết thúc. 

Tương truyền Thánh Mẫu hay giáng về đêm, dân gian coi đó là linh thiêng nhất khi có sự giao hòa âm – dương, trời đất vạn vật và con người. Thế nên dân làng chầu chực đến canh ba (tức 12h) mà thấy Thanh đồng lắc lư ra dấu hiệu thì đồng đền phải ra báo với chức sắc lớn nhất bấy giờ vào cung khâm trực, vấn an, kêu cầu đức Thánh. Vị chức sắc phải bịt khăn, quán tẩy, quỳ lạy mà khấn rằng: “Lạy Mẫu, Thánh Mẫu giáng về, xin Mẫu cho trần gian chúng con được biết hiệu Ngài ạ!”.


Đồng nhân sẽ chọn duy nhất một thoi vàng trong mâm vàng 1000 thoi đã chuẩn bị. Nếu chọn trúng thoi vàng có hiệu của Thánh Mẫu thì coi như đồng nhân đỗ đồng quan, được các cụ đồng cựu, chức sắc, chính quyền công nhận. Bấy giờ, chức sắc tuyên bố trước dân chúng: “Thánh Mẫu giáng trần”, bên ngoài ca vũ nhã nhạc nổi lên chúc Thánh, tất cả đều đồng thanh hoan hỉ: “Thánh Thọ Vô Cương”.

Khoảnh khắc Thánh Mẫu giáng ngự là lúc linh thiêng nhất. Tất cả quan chức, bà con tề tựu trước cửa cung cấm, vị chức sắc lớn nhất thay mặt bản sở cẩn cáo với Mẫu. Bấy giờ, là chúc Thánh, xin Mẫu phù trợ cho quốc thái dân an, phong điều vũ thuận, bà con bản sở làm ăn buôn bán đề huề, no ấm…

Lúc này, thị giả dâng lễ vật như hoa, trà, quả, thực, vải lụa, đồng nhân không mở khăn, chỉ lấy tay chạm nhẹ như một sự chứng giám của Thánh Mẫu. Được đôi phút, Thánh Mẫu xe giá , đồng nhân được chấp sự khiêng ra cạnh đền, đặt trên vải đỏ. Pháp sư cúng chuộc lại hồn phách và tỉnh dậy, được hầu trà hầu nước và bàn chuyện “khao” đỗ đồng.

Học người đi trước – dắt người theo sau

Người đỗ đồng quan được cả hương, xã trọng vọng, nhân dân tôn kính. Đền có vị đỗ đồng quan được tổ chức “khao cỗ linh đình” các chức sắc, cụ đồng, nhân dân làng xã. Ngoài ra, sau đỗ đồng, được cờ lọng, kiệu võng lộng lậy rước về bản đền của mình cáo tổ. Mọi nghi lễ diễn ra hết sức trang trọng, chuẩn bị kĩ lưỡng, trang tố.

Đối với nhân dân bản sở, người đỗ đồng được mọi người vô cùng tôn kính, thay quyền Tiên Thánh tại nhân gian giáo hóa dân chúng, giúp đời sống tâm linh, văn hóa theo lề lối, chừng mực. Ngoài ra, người đỗ đồng sau khi mất được tạc tượng thờ như Chầu Bản đền nơi trụ xứ. Được nhân dân lưu vào điển tích, ca tụng truyền miệng, tạc bia lưu danh. 

Ngày nay, ở đền Bằng Sở (Thường Tín), vẫn thờ phụng cố đồng quan Tôn Nữ Lê Hoa. Tương truyền bà là Hoàng nữ của Vua Đồng Khánh, chị của Vua Khải Định, cô của Vua Bảo Đại. Phía bên tay phải, ban ngoài cung cấm đặt tôn tượng tố hảo, trang nghiêm thờ phụng bà như Chầu bà thủ đền.

 
Dân gian kể lại, bà Lê Hoa đã từ bỏ cuộc sống nhung lụa, tìm đến cửa Thánh tu hành và thi đỗ đồng quan nên được nhân dân thờ phụng như bây giờ. Với nhân dân bản sở, bà là người có công hưng công xây đền tại làng thờ Thánh Mẫu và chư vị Tiên Thánh.

Mặt khác, bà còn giúp dân chúng cách lao động, làm ăn buôn bán, giúp đỡ những người bần hàn. Vì vậy, nơi đây tôn thờ bà như người “Mẹ”, sự hiện diện thay mặt “Thánh Mẫu” chốn nhân gian để giáo hóa, giúp đỡ dân chúng.

Ở Hà Nội, có rất nhiều ngôi đền có mẹ đồng quan như: Cụ Đan Thị Tư, đền cây Quế, đền Hội Thống, đền Hàng Cân, đền Võ Thạch, đền Hạ Vĩ… Đến nay, tục thi Mẹ đồng quan chỉ còn qua các câu chuyện của thế hệ cụ đồng Thịnh, cụ Tư... kể lại cho con cháu. Nhưng, phần nào chúng ta hiểu được một nghi lễ tâm linh đặc sắc đã từng được duy trì từ những năm của thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Không chỉ dừng lại ở một nghi lễ tâm linh mà còn thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người Hà Nội xưa. Vốn không phải cái nôi của tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng nơi đây đã lưu giữ những giá trị đẹp nhất trong lề lối, phép tắc, những chuẩn mực của các nghi lễ thuộc tín ngưỡng thờ Mẫu.

Thế mới thấy được cái tâm của bao thế hệ cụ đồng đã giữ gìn và truyền lại những tinh hoa nhất của tín ngưỡng thờ Mẫu. Để sau này, ở Hà Nội không chỉ là nơi để phát triển mà còn là nơi bảo tồn những giá trị cao đẹp nhất của tín ngưỡng. Cũng như những người Hà Nội xưa, các cụ đồng là tấm gương cho hậu thế học tập và noi theo tâm đức của người đi trước. 

                                                                                                                                                                                    Tuệ Minh
                                                                                                                                                          Nguồn: phapluatplus.vn

BÀI ĐĂNG NỔI BẬT

Để bát đũa dở, rác thức ăn qua đêm cẩn thận chiêu vong

I/ THÓI QUEN ĐỂ BÁT ĐŨA QUA ĐÊM ………………………………………………............ Nhiều gia đình có thói quen để BÁT ĐŨA DỞ của bữa tối - đến sáng hôm...

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN NHẤT